Trong khoảng 10% trường hợp thì bệnh tăng huyết áp được gây ra bởi một bệnh khác (tăng huyết áp thứ phát). Ở những trường hợp này, khi bệnh chính được chữa khỏi thì huyết áp thường trở về bình thường. Nguyên nhân gây ra tăng huyết áp thứ phát bao gồm:
- Bệnh thận mãn
- U hoặc những bệnh khác về tuyến thượng thận.
- Hẹp động mạch chủ bẩm sinh – có thể gây ra cao huyết áp ở cánh tay.
- Có thai.
- Sử dụng thuốc ngừa thai.
- Nghiện rượu.
- Bệnh của tuyến giáp.
Còn lại 90% trường hợp không tìm ra được nguyên nhân (được gọi là tăng huyết áp tiên phát). Mặc dù nguyên nhân chính chưa được biết đến nhưng người ta cũng nhận ra được một số yếu tố có thể góp phần gây ra tăng huyết áp
- Tuổi tác: tuổi càng cao thì càng dễ bị tăng huyết áp đặc biệt là huyết áp tâm thu, do động mạch trở nên cứng hơn, nguyên nhân là do bệnh xơ cứng động mạch.
- Tình trạng kinh tế xã hội: tăng huyết áp
- cũng gặp nhiều hơn ở những nhóm người có trình độ giáo dục và kinh tế xã hội thấp.
- Tiền sử gia đình (tính di truyền): bệnh tăng huyết áp có khuynh hướng di truyền theo gia đình.
- Giới: thường thì nam giới dễ bị cao huyết áp hơn nữ. Điều này thay đổi theo tuổi tác và chủng tộc
- Thừa cân (béo phì): Những người béo phì có nguy cơ bị cao huyết áp cao gấp từ 2 đến 6 lần những người có trọng lượng trong giới hạn bình thường.
- Nhạy cảm với Natri (muối): một số người bị nhạy cảm với Natri (muối) do đó huyết áp của họ sẽ tăng cao nếu dùng muối.
- Uống rượu: uống nhiều hơn 1 hay 2 ly rượu 1 ngày có thể làm tăng huyết áp đối với những người nhạy cảm với rượu.
- Thuốc tránh thai (dùng bằng đường uống): một số phụ nữ dùng thuốc tránh thai có thể bị cao huyết áp.
- Không tập thể dục: ngồi nhiều một chỗ có thể gây béo phì và tăng huyết áp.
- Thuốc: một số loại thuốc, như amphetamine (thuốc kích thích), thuốc giảm cân, thuốc cảm và dị ứng có thể làm tăng huyết áp.
Nên bổ sung thuốc hỗ trợ tim mạch Coenzyme Q10 mỗi ngày để giúp điều hòa huyết áp. Coenzyme Q10 có tác dụng tăng cường trao đổi chất của các tế bào cơ tim, đồng thời tăng cường sự dẻo dai của cơ tim khi nó phải làm việc quá tải như những người bị suy tim, mạch vành.
Coenzyme Q10 là thành phần tự nhiên của mitochondria trong các tế bào, thành phần không thể thiếu được để chuyển hoá năng lượng và tham gia vào quá trình ôxy hóa bên trong tế bào, đặc biệt là tăng cường trao đổi chất tế bào cơ tim.
1. Tăng huyết áp không rõ nguyên nhân (còn gọi là tăng huyết áp vô căn hoặc tiên phát, nguyên phát): 90%-95%.
2. Tăng huyết áp có nguyên nhân (tăng huyết áp thứ phát, mắc phải): 5%-10%. như bệnh thận: viêm thận mạn, u thượng thận, bệnh tim mạch, đái tháo đường...
Điểm khác biệt là tăng huyết áp có nguyên nhân thì chữa triệt để được, ví dụ tăng huyết áp do hẹp động mạch thận thì sau khi nong động mạch hẹp, huyết áp bình thường trở lại, không phải uống thuốc lâu dài.
Tuổi trung niên: Đa số những người bị bệnh huyết áp cao đều là người từ tuổi trung niên, ở nam giới độ tuổi khoảng 40-45 tuổi, còn phụ nữ thì sau thời kỳ mãn kinh. Nguyên nhân tăng huyết áp ở độ tuổi này chủ yếu do động mạch trở nên cứng hơn, mà nguyên nhân là do xơ cứng động mạch.
Do di truyền: Điều này cũng khá phổ biến bởi theo thống kê có nhiều trường hợp bị huyết áp cao có cùng quan hệ huyết thống.
Thừa cân, béo phì: Theo kết quả nghiên cứu khảo sát, những người béo phì thường có nguy cơ bị huyết áp cao gấp 2 đến 3 lần so với người bình thường.
Ít hoạt động thể chất: Với người có lối sống ít vận động sẽ thường xuyên tăng nhịp tim, loạn nhịp hoặc huyết áp cao do các tường ngăn của các động mạch. Ngoài ra, lối sống lười vận động sẽ là một nguyên nhân gây béo phì và thừa cân.
Hút thuốc lá: Tại sao lại như vậy? Các nhà khoa học cho rằng, ngay tại thời điểm chúng ta hút thuốc hoặc nhai thuốc thì huyết áp lúc đó cũng tăng lên đáng kể. Vì các thành phần hóa học có trong thuốc lá làm thay đổi thành niêm mạc của động mạch, dẫn đến áp lực tăng gây ra các triệu chứng của bệnh huyết áp cao. Hơn nữa, những người hút thuốc thụ động cũng có những tác động tương tự.
Chế độ ăn uống: Không nên ăn quá mặn bởi lượng natri cao sẽ góp phần đẩy nhanh tình trạng bệnh xấu đi. Bổ sung đầy đủ hàm lượng kali, canxi, sẽ giúp điều chỉnh sự cân bằng của natri trong tế bào, hoặc các enzyme sản xuất ra từ thận.
Áp huyết cao (hay còn gọi là cao huyết áp) là khi áp suất của máu đẩy vào thành mạch của máu lên quá cao, và có thể gây ra nguy hiểm đến mạch máu hay những cơ quan khác trong cơ thể. Nếu bạn có trị số máu cao, điều đó cũng chưa thể khẳng định là bạn có chứng cao máu. Sự chẩn đoán của chứng bệnh này phải được thường xuyên theo dõi với Bác sĩ hoặc qua những trung tâm Y tế. Đối với những người lớn tuổi, nếu chỉ số là 140/90 trở lên, thì được xác định là cao máu. Tuy nhiên, với những người có bệnh thận, tiểu đường, hoặc mập phì, thì chỉ số này sẽ thấp hơn : 130/80
Bệnh áp huyết cao: Nguyên nhân và cách điều trị
Nguyên nhân bệnh cao huyết áp:
Trong khoảng 10% trường hợp thì bệnh tăng huyết áp được gây ra bởi một bệnh khác (tăng huyết áp thứ phát). Ở những trường hợp này, khi bệnh chính được chữa khỏi thì huyết áp thường trở về bình thường. Nguyên nhân gây ra tăng huyết áp thứ phát bao gồm:
Bệnh thận mãn
U hoặc những bệnh khác về tuyến thượng thận.
Hẹp động mạch chủ bẩm sinh – có thể gây ra cao huyết áp ở cánh tay.
Có thai.
Sử dụng thuốc ngừa thai.
Nghiện rượu.
Bệnh của tuyến giáp.
Còn lại 90% trường hợp không tìm ra được nguyên nhân (được gọi là tăng huyết áp tiên phát). Mặc dù nguyên nhân chính chưa được biết đến nhưng người ta cũng nhận ra được một số yếu tố có thể góp phần gây ra tăng huyết áp
Tuổi tác: tuổi càng cao thì càng dễ bị tăng huyết áp đặc biệt là huyết áp tâm thu, do động mạch trở nên cứng hơn, nguyên nhân là do bệnh xơ cứng động mạch.
Tình trạng kinh tế xã hội: tăng huyết áp
cũng gặp nhiều hơn ở những nhóm người có trình độ giáo dục và kinh tế xã hội thấp.
Tiền sử gia đình (tính di truyền): bệnh tăng huyết áp có khuynh hướng di truyền theo gia đình.
Giới: thường thì nam giới dễ bị cao huyết áp hơn nữ. Điều này thay đổi theo tuổi tác và chủng tộc
Thừa cân (béo phì): Những người béo phì có nguy cơ bị cao huyết áp cao gấp từ 2 đến 6 lần những người có trọng lượng trong giới hạn bình thường.
Nhạy cảm với Natri (muối): một số người bị nhạy cảm với Natri (muối) do đó huyết áp của họ sẽ tăng cao nếu dùng muối.
Uống rượu: uống nhiều hơn 1 hay 2 ly rượu 1 ngày có thể làm tăng huyết áp đối với những người nhạy cảm với rượu.
Thuốc tránh thai (dùng bằng đường uống): một số phụ nữ dùng thuốc tránh thai có thể bị cao huyết áp.
Không tập thể dục: ngồi nhiều một chỗ có thể gây béo phì và tăng huyết áp.
Thuốc: một số loại thuốc, như amphetamine (thuốc kích thích), thuốc giảm cân, thuốc cảm và dị ứng có thể làm tăng huyết áp.
Biểu hiện
Nhức đầu: Phía sau gáy hay trước trán, thường vào buổi sáng, đôi khi kéo dài cả ngày.
Chóng mặt: Cảm giác đi đứng không vững và hơi nặng đầu.
Mệt: Cảm giác nặng ở ngực, hơi khó thở.
Yếu liệt tay chân vài giây đến vài phút.
Chảy máu cam tái phát nhiều lần.
Ù tai, mất ngủ…
Điều trị cao huyết áp
Nếu bị béo phì, nên áp dụng chế độ ăn giảm cân: ít đường, ít mỡ, nhiều chất đạm và chất xơ rau quả, trái cây.
Nên ăn nhạt, không ăn quá 1 muỗng cà- phê muối mỗi ngày. Lượng muối này bao gồm cả lượng muối được nêm trong thức ăn và nước chấm.
Nên ăn chất đạm có nguồn gốc từ cá và thực vật hơn là các loại thịt heo, bò, gà…
Không nên ăn quá ngọt ngay cả khi không bị tiểu đường…
Hạn chế ăn mỡ động vật và dầu dừa. Tốt nhất là dùng dầu ô- liu, dầu hướng dương, dầu mè, dầu đậu nành.
Nên ăn nhiều rau cải, trái cây để cung cấp nhiều chất khoáng, vitamin và chất xơ.
Ngừng hoặc hạn chế uống nhiều rựơu.
Bỏ hẳn hút thuốc lá.
Giữ nếp sinh hoạt điều độ, ổn định. Tránh trạng thái căng thẳng, xúc động, lo âu.
Rèn luyện thân thể thường xuyên: tập thể dục đều đặn ít nhất 45 phút mỗi ngày, 3 lần trong một tuần nhưng không nên gắng sức.
Bệnh cao huyết áp có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm đe dọa sức khỏe và tính mạng của bạn. Phần lớn những người bị bệnh thường không biết vì bệnh không có triệu chứng cụ thể, chỉ được phát hiện khi đã bị tai biến mạch máu não, đau tim, đột quỵ, suy thận, tức là đã trễ. Trong khi đó bệnh lại có thể chữa được, nếu được điều trị đúng, việc giảm được những tác hại do biến chứng gây ra là hoàn toàn khả quan.
Bệnh cao huyết áp có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm đe dọa sức khỏe và tính mạng của bạn. Phần lớn những người bị bệnh thường không biết vì bệnh không có triệu chứng cụ thể, chỉ được phát hiện khi đã bị tai biến mạch máu não, đau tim, đột quỵ, suy thận, tức là đã trễ. Trong khi đó bệnh lại có thể chữa được, nếu được điều trị đúng, việc giảm được những tác hại do biến chứng gây ra là hoàn toàn khả quan.
Trái với quan niệm thông thường rằng áp lực thời gian quá lớn chính là nguyên nhân gây ra ức chế và đau đầu, một nghiên cứu mới đây đã đem lại kết quả bất ngờ: một ngày làm việc dài chính là nguyên nhân của những cơn stress và bệnh cao huyết áp. Đặc biệt, với những người làm việc thường xuyên, liên tục trong một thời gian dài thì nguy cơ này còn cao hơn.
Bạn ngập đầu trong công việc và quyết định kéo dài ngày làm việc để giảm tải áp lực? Bạn đã nhầm, đây chính là thủ phạm gây bệnh cao huyết áp.
Bệnh cao huyết áp có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm đe dọa sức khỏe và tính mạng của bạn. Phần lớn những người bị bệnh thường không biết vì bệnh không có triệu chứng cụ thể, chỉ được phát hiện khi đã bị tai biến mạch máu não, đau tim, đột quỵ, suy thận, tức là đã trễ. Trong khi đó bệnh lại có thể chữa được, nếu được điều trị đúng, việc giảm được những tác hại do biến chứng gây ra là hoàn toàn khả quan.
Trái với quan niệm thông thường rằng áp lực thời gian quá lớn chính là nguyên nhân gây ra ức chế và đau đầu, một nghiên cứu mới đây đã đem lại kết quả bất ngờ: một ngày làm việc dài chính là nguyên nhân của những cơn stress và bệnh cao huyết áp. Đặc biệt, với những người làm việc thường xuyên, liên tục trong một thời gian dài thì nguy cơ này còn cao hơn.
Answers & Comments
Verified answer
Trong khoảng 10% trường hợp thì bệnh tăng huyết áp được gây ra bởi một bệnh khác (tăng huyết áp thứ phát). Ở những trường hợp này, khi bệnh chính được chữa khỏi thì huyết áp thường trở về bình thường. Nguyên nhân gây ra tăng huyết áp thứ phát bao gồm:
- Bệnh thận mãn
- U hoặc những bệnh khác về tuyến thượng thận.
- Hẹp động mạch chủ bẩm sinh – có thể gây ra cao huyết áp ở cánh tay.
- Có thai.
- Sử dụng thuốc ngừa thai.
- Nghiện rượu.
- Bệnh của tuyến giáp.
Còn lại 90% trường hợp không tìm ra được nguyên nhân (được gọi là tăng huyết áp tiên phát). Mặc dù nguyên nhân chính chưa được biết đến nhưng người ta cũng nhận ra được một số yếu tố có thể góp phần gây ra tăng huyết áp
- Tuổi tác: tuổi càng cao thì càng dễ bị tăng huyết áp đặc biệt là huyết áp tâm thu, do động mạch trở nên cứng hơn, nguyên nhân là do bệnh xơ cứng động mạch.
- Tình trạng kinh tế xã hội: tăng huyết áp
- cũng gặp nhiều hơn ở những nhóm người có trình độ giáo dục và kinh tế xã hội thấp.
- Tiền sử gia đình (tính di truyền): bệnh tăng huyết áp có khuynh hướng di truyền theo gia đình.
- Giới: thường thì nam giới dễ bị cao huyết áp hơn nữ. Điều này thay đổi theo tuổi tác và chủng tộc
- Thừa cân (béo phì): Những người béo phì có nguy cơ bị cao huyết áp cao gấp từ 2 đến 6 lần những người có trọng lượng trong giới hạn bình thường.
- Nhạy cảm với Natri (muối): một số người bị nhạy cảm với Natri (muối) do đó huyết áp của họ sẽ tăng cao nếu dùng muối.
- Uống rượu: uống nhiều hơn 1 hay 2 ly rượu 1 ngày có thể làm tăng huyết áp đối với những người nhạy cảm với rượu.
- Thuốc tránh thai (dùng bằng đường uống): một số phụ nữ dùng thuốc tránh thai có thể bị cao huyết áp.
- Không tập thể dục: ngồi nhiều một chỗ có thể gây béo phì và tăng huyết áp.
- Thuốc: một số loại thuốc, như amphetamine (thuốc kích thích), thuốc giảm cân, thuốc cảm và dị ứng có thể làm tăng huyết áp.
Nên bổ sung thuốc hỗ trợ tim mạch Coenzyme Q10 mỗi ngày để giúp điều hòa huyết áp. Coenzyme Q10 có tác dụng tăng cường trao đổi chất của các tế bào cơ tim, đồng thời tăng cường sự dẻo dai của cơ tim khi nó phải làm việc quá tải như những người bị suy tim, mạch vành.
Coenzyme Q10 là thành phần tự nhiên của mitochondria trong các tế bào, thành phần không thể thiếu được để chuyển hoá năng lượng và tham gia vào quá trình ôxy hóa bên trong tế bào, đặc biệt là tăng cường trao đổi chất tế bào cơ tim.
1. Tăng huyết áp không rõ nguyên nhân (còn gọi là tăng huyết áp vô căn hoặc tiên phát, nguyên phát): 90%-95%.
2. Tăng huyết áp có nguyên nhân (tăng huyết áp thứ phát, mắc phải): 5%-10%. như bệnh thận: viêm thận mạn, u thượng thận, bệnh tim mạch, đái tháo đường...
Điểm khác biệt là tăng huyết áp có nguyên nhân thì chữa triệt để được, ví dụ tăng huyết áp do hẹp động mạch thận thì sau khi nong động mạch hẹp, huyết áp bình thường trở lại, không phải uống thuốc lâu dài.
Tuổi trung niên: Đa số những người bị bệnh huyết áp cao đều là người từ tuổi trung niên, ở nam giới độ tuổi khoảng 40-45 tuổi, còn phụ nữ thì sau thời kỳ mãn kinh. Nguyên nhân tăng huyết áp ở độ tuổi này chủ yếu do động mạch trở nên cứng hơn, mà nguyên nhân là do xơ cứng động mạch.
Do di truyền: Điều này cũng khá phổ biến bởi theo thống kê có nhiều trường hợp bị huyết áp cao có cùng quan hệ huyết thống.
Thừa cân, béo phì: Theo kết quả nghiên cứu khảo sát, những người béo phì thường có nguy cơ bị huyết áp cao gấp 2 đến 3 lần so với người bình thường.
Ít hoạt động thể chất: Với người có lối sống ít vận động sẽ thường xuyên tăng nhịp tim, loạn nhịp hoặc huyết áp cao do các tường ngăn của các động mạch. Ngoài ra, lối sống lười vận động sẽ là một nguyên nhân gây béo phì và thừa cân.
Hút thuốc lá: Tại sao lại như vậy? Các nhà khoa học cho rằng, ngay tại thời điểm chúng ta hút thuốc hoặc nhai thuốc thì huyết áp lúc đó cũng tăng lên đáng kể. Vì các thành phần hóa học có trong thuốc lá làm thay đổi thành niêm mạc của động mạch, dẫn đến áp lực tăng gây ra các triệu chứng của bệnh huyết áp cao. Hơn nữa, những người hút thuốc thụ động cũng có những tác động tương tự.
Chế độ ăn uống: Không nên ăn quá mặn bởi lượng natri cao sẽ góp phần đẩy nhanh tình trạng bệnh xấu đi. Bổ sung đầy đủ hàm lượng kali, canxi, sẽ giúp điều chỉnh sự cân bằng của natri trong tế bào, hoặc các enzyme sản xuất ra từ thận.
Áp huyết cao (hay còn gọi là cao huyết áp) là khi áp suất của máu đẩy vào thành mạch của máu lên quá cao, và có thể gây ra nguy hiểm đến mạch máu hay những cơ quan khác trong cơ thể. Nếu bạn có trị số máu cao, điều đó cũng chưa thể khẳng định là bạn có chứng cao máu. Sự chẩn đoán của chứng bệnh này phải được thường xuyên theo dõi với Bác sĩ hoặc qua những trung tâm Y tế. Đối với những người lớn tuổi, nếu chỉ số là 140/90 trở lên, thì được xác định là cao máu. Tuy nhiên, với những người có bệnh thận, tiểu đường, hoặc mập phì, thì chỉ số này sẽ thấp hơn : 130/80
Bệnh áp huyết cao: Nguyên nhân và cách điều trị
Nguyên nhân bệnh cao huyết áp:
Trong khoảng 10% trường hợp thì bệnh tăng huyết áp được gây ra bởi một bệnh khác (tăng huyết áp thứ phát). Ở những trường hợp này, khi bệnh chính được chữa khỏi thì huyết áp thường trở về bình thường. Nguyên nhân gây ra tăng huyết áp thứ phát bao gồm:
Bệnh thận mãn
U hoặc những bệnh khác về tuyến thượng thận.
Hẹp động mạch chủ bẩm sinh – có thể gây ra cao huyết áp ở cánh tay.
Có thai.
Sử dụng thuốc ngừa thai.
Nghiện rượu.
Bệnh của tuyến giáp.
Còn lại 90% trường hợp không tìm ra được nguyên nhân (được gọi là tăng huyết áp tiên phát). Mặc dù nguyên nhân chính chưa được biết đến nhưng người ta cũng nhận ra được một số yếu tố có thể góp phần gây ra tăng huyết áp
Tuổi tác: tuổi càng cao thì càng dễ bị tăng huyết áp đặc biệt là huyết áp tâm thu, do động mạch trở nên cứng hơn, nguyên nhân là do bệnh xơ cứng động mạch.
Tình trạng kinh tế xã hội: tăng huyết áp
cũng gặp nhiều hơn ở những nhóm người có trình độ giáo dục và kinh tế xã hội thấp.
Tiền sử gia đình (tính di truyền): bệnh tăng huyết áp có khuynh hướng di truyền theo gia đình.
Giới: thường thì nam giới dễ bị cao huyết áp hơn nữ. Điều này thay đổi theo tuổi tác và chủng tộc
Thừa cân (béo phì): Những người béo phì có nguy cơ bị cao huyết áp cao gấp từ 2 đến 6 lần những người có trọng lượng trong giới hạn bình thường.
Nhạy cảm với Natri (muối): một số người bị nhạy cảm với Natri (muối) do đó huyết áp của họ sẽ tăng cao nếu dùng muối.
Uống rượu: uống nhiều hơn 1 hay 2 ly rượu 1 ngày có thể làm tăng huyết áp đối với những người nhạy cảm với rượu.
Thuốc tránh thai (dùng bằng đường uống): một số phụ nữ dùng thuốc tránh thai có thể bị cao huyết áp.
Không tập thể dục: ngồi nhiều một chỗ có thể gây béo phì và tăng huyết áp.
Thuốc: một số loại thuốc, như amphetamine (thuốc kích thích), thuốc giảm cân, thuốc cảm và dị ứng có thể làm tăng huyết áp.
Biểu hiện
Nhức đầu: Phía sau gáy hay trước trán, thường vào buổi sáng, đôi khi kéo dài cả ngày.
Chóng mặt: Cảm giác đi đứng không vững và hơi nặng đầu.
Mệt: Cảm giác nặng ở ngực, hơi khó thở.
Yếu liệt tay chân vài giây đến vài phút.
Chảy máu cam tái phát nhiều lần.
Ù tai, mất ngủ…
Điều trị cao huyết áp
Nếu bị béo phì, nên áp dụng chế độ ăn giảm cân: ít đường, ít mỡ, nhiều chất đạm và chất xơ rau quả, trái cây.
Nên ăn nhạt, không ăn quá 1 muỗng cà- phê muối mỗi ngày. Lượng muối này bao gồm cả lượng muối được nêm trong thức ăn và nước chấm.
Nên ăn chất đạm có nguồn gốc từ cá và thực vật hơn là các loại thịt heo, bò, gà…
Không nên ăn quá ngọt ngay cả khi không bị tiểu đường…
Hạn chế ăn mỡ động vật và dầu dừa. Tốt nhất là dùng dầu ô- liu, dầu hướng dương, dầu mè, dầu đậu nành.
Nên ăn nhiều rau cải, trái cây để cung cấp nhiều chất khoáng, vitamin và chất xơ.
Ngừng hoặc hạn chế uống nhiều rựơu.
Bỏ hẳn hút thuốc lá.
Giữ nếp sinh hoạt điều độ, ổn định. Tránh trạng thái căng thẳng, xúc động, lo âu.
Rèn luyện thân thể thường xuyên: tập thể dục đều đặn ít nhất 45 phút mỗi ngày, 3 lần trong một tuần nhưng không nên gắng sức.
Bệnh cao huyết áp có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm đe dọa sức khỏe và tính mạng của bạn. Phần lớn những người bị bệnh thường không biết vì bệnh không có triệu chứng cụ thể, chỉ được phát hiện khi đã bị tai biến mạch máu não, đau tim, đột quỵ, suy thận, tức là đã trễ. Trong khi đó bệnh lại có thể chữa được, nếu được điều trị đúng, việc giảm được những tác hại do biến chứng gây ra là hoàn toàn khả quan.
Bệnh cao huyết áp có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm đe dọa sức khỏe và tính mạng của bạn. Phần lớn những người bị bệnh thường không biết vì bệnh không có triệu chứng cụ thể, chỉ được phát hiện khi đã bị tai biến mạch máu não, đau tim, đột quỵ, suy thận, tức là đã trễ. Trong khi đó bệnh lại có thể chữa được, nếu được điều trị đúng, việc giảm được những tác hại do biến chứng gây ra là hoàn toàn khả quan.
Trái với quan niệm thông thường rằng áp lực thời gian quá lớn chính là nguyên nhân gây ra ức chế và đau đầu, một nghiên cứu mới đây đã đem lại kết quả bất ngờ: một ngày làm việc dài chính là nguyên nhân của những cơn stress và bệnh cao huyết áp. Đặc biệt, với những người làm việc thường xuyên, liên tục trong một thời gian dài thì nguy cơ này còn cao hơn.
Bạn ngập đầu trong công việc và quyết định kéo dài ngày làm việc để giảm tải áp lực? Bạn đã nhầm, đây chính là thủ phạm gây bệnh cao huyết áp.
Bệnh cao huyết áp có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm đe dọa sức khỏe và tính mạng của bạn. Phần lớn những người bị bệnh thường không biết vì bệnh không có triệu chứng cụ thể, chỉ được phát hiện khi đã bị tai biến mạch máu não, đau tim, đột quỵ, suy thận, tức là đã trễ. Trong khi đó bệnh lại có thể chữa được, nếu được điều trị đúng, việc giảm được những tác hại do biến chứng gây ra là hoàn toàn khả quan.
Trái với quan niệm thông thường rằng áp lực thời gian quá lớn chính là nguyên nhân gây ra ức chế và đau đầu, một nghiên cứu mới đây đã đem lại kết quả bất ngờ: một ngày làm việc dài chính là nguyên nhân của những cơn stress và bệnh cao huyết áp. Đặc biệt, với những người làm việc thường xuyên, liên tục trong một thời gian dài thì nguy cơ này còn cao hơn.
do tim mạch.
trị tim .cho ổn định.
không còn cao huyết áp.